Tính riêng 2 quý đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang thị trường Trung Quốc ước đạt 5,2 tỷ USD. Trong đó, giá trị xuất khẩu nhiều mặt hàng có sự tăng trưởng đột phá như: gạo, rau quả, hạt điều…
Phương tiện vận tải và phụ tùng
Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 770 triệu USD, tăng 4,3% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong ba tháng/2020 đạt 2,21 tỉ USD, tăng 2,5% so với cùng kì năm 2019.
Các thị trường nhập khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng từ Việt Nam trong ba tháng đầu năm gồm Nhật Bản với trị giá đạt 611 triệu USD, giảm 4%; sang Mỹ đạt 409 triệu USD, tăng 14,5%; sang Singapore đạt trị giá 151 triệu USD, giảm 21,9%…
Trị giá xuất khẩu trong tháng là 629 triệu USD, tăng 25,5% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong ba tháng đầu năm nay đạt 1,61 tỉ USD, giảm 9,7% so với cùng thời gian năm 2019.
Hàng thủy sản trong ba tháng tính từ đầu năm 2020 chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản 313 triệu USD; tăng 2,2%; Mỹ 286 triệu USD, tăng 1,2%; EU (28 nước) với 242 triệu USD, giảm 13,2%; Trung Quốc 140 triệu USD, giảm 27,6%…
Lượng xuất khẩu sắt thép các loại trong tháng 3 đạt 816 nghìn tấn, với trị giá đạt 454 triệu USD, tăng 18,1% về lượng và tăng 18,3% về trị giá. Qua đó đưa lượng xuất khẩu mặt hàng này trong ba tháng từ đầu năm 2020 đạt 1,99 triệu tấn, trị giá 1,1 tỉ USD, tăng 12,8% về lượng nhưng giảm 2,2% về trị giá so với cùng kì năm 2019.
Tính đến hết tháng 3/2020 sắt thép các loại chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường Campuchia là 364 nghìn tấn, giảm 18,6%; Malaysia 202 nghìn tấn, tăng 16,9%; Indonesia 196 nghìn tấn, giảm 10,3%; Thái Lan 181 nghìn tấn, tăng 68,3%…
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác
Xuất khẩu nhóm hàng này tháng 3/2020 đạt 1,96 tỉ USD, tăng 18,9% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 3 trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt gần 5,1 tỉ USD, tăng 28,2% so với cùng kì năm trước.
Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong ba tháng đầu năm 2020 chủ yếu gồm Mỹ với 1,6 tỉ USD, tăng mạnh 65,2%; sang EU (28 nước) đạt trị giá 843 triệu USD, tăng 37,8%; Hàn Quốc với gần 500 triệu USD, tăng 50,5% so với cùng thời gian năm 2019; Nhật Bản với 495 triệu USD tăng 10%…
Triển vọng những tháng cuối năm
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ phục hồi lên mức 5,6% trong năm 2023. Do đó, dự báo từ nay đến cuối năm, xuất khẩu nông sản vào thị trường này sẽ tăng nhẹ khi một số mặt hàng như: rau quả, gạo, điều vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng; các mặt hàng thủy sản, đồ gỗ, sắn có thể phục hồi nhẹ trong những tháng cuối năm 2023.
Cụ thể, với mặt hàng sắn, trong 2 tháng gần đây, nhập khẩu sắn và tinh bột sắn của Trung Quốc giảm so cùng kỳ năm 2022 do đang vào mùa tiêu thụ thấp điểm.
Thời gian tới, dự báo nhu cầu tiêu thụ sắn và tinh bột sắn của Trung Quốc sẽ sôi động trở lại khi nước này chuẩn bị bước vào mùa sản xuất bánh trung thu. Mặc dù, tại thị trường Trung Quốc, sắn và tinh bột sắn của Việt Nam đang phải cạnh tranh mạnh với các nước như: Thái Lan, Lào và Campuchia, song với lợi thế giá rẻ, giao thương quen thuộc, thị trường gần, doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể mở rộng thị phần tại thị trường Trung Quốc.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ phục hồi lên mức 5,6% trong năm 2023. Do đó, dự báo từ nay đến cuối năm, xuất khẩu nông sản vào thị trường này sẽ tăng nhẹ.
Ngoài ra, cao su cũng là mặt hàng tiềm năng có thể lấy lại mức tăng trong những tháng cuối năm khi nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc tăng lên.
Cụ thể, trong mấy tháng gần đây, nhập khẩu cao su của Trung Quốc liên tục tăng khi ngành ô-tô nước này bắt đầu có những tín hiệu tăng trưởng tích cực.
Với ngành hàng rau quả, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu rau quả lớn thứ 3 thế giới.
Theo số liệu thống kê từ cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 6 tháng đầu năm 2023, nhập khẩu rau quả của Trung Quốc đạt 13,7 tỷ USD, tăng 6,8% so cùng kỳ năm 2022.
Với lợi thế về vị trí địa lý gần với Trung Quốc, việc vận chuyển rau quả tươi của Việt Nam sang thị trường này có chi phí thấp hơn, giữ được độ tươi và chất lượng, nên có khả năng cạnh tranh hơn so các nguồn cung cấp khác.
Để thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang thị trường Trung Quốc những tháng cuối năm 2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, dự kiến vào tháng 9 tới, Bộ sẽ xem xét, bàn cụ thể việc ký biên bản ghi nhớ hợp tác trong phát triển nông nghiệp và giao thương nông, lâm, thủy sản giữa Việt Nam với các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc).
Bộ cũng xúc tiến thành lập “Hiệp hội Doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản Việt Nam-Quảng Tây” và “Hiệp hội Doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản Việt Nam-Vân Nam”; đồng thời thúc đẩy kỹ thuật để sớm ký kết Nghị định thư với Tổng cục Hải quan Trung Quốc về yêu cầu an toàn thực phẩm, kiểm dịch và kiểm tra đối với sản phẩm thủy sản xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc; tổ chức Hội thảo “Giải pháp xây dựng và bảo vệ thương hiệu trái sầu riêng Việt Nam tại thị trường Trung Quốc”; Hội thảo “Hình thành chuỗi logistics nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc”.
Theo Tổng cục Hải quan, đến nay có 11 nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD. 2 nhóm hàng lớn nhất là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại và linh kiện. Tiếp đó là rau quả; thủy sản; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện; xơ, sợi…
Điện thoại các loại và linh kiện
Tháng 3/2020 xuất khẩu của mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt trị giá 5,32 tỉ USD, tăng 9,2% so với tháng trước; đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong quí I/2020 đạt 12,88 tỉ USD, tăng 6,2% so với cùng kì năm 2019.
Lũy kế ba tháng đầu năm, xuất khẩu nhóm hàng này sang EU (28 nước) đạt 2,95 tỉ USD, giảm 13,4%; xuất khẩu sang Mỹ đạt trị giá 2,67 tỉ USD, tăng 1,1%; sang Trung Quốc đạt 1,98 tỉ USD, tăng gấp 3,87 lần; sang Hàn Quốc đạt 1,23 tỉ USD, giảm 1,4%… so với cùng kì năm trước.
Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện
Trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện trong tháng 3 đạt 3,69 tỉ USD, tăng 34,5% so với tháng trước; đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2020 đạt 9,08 tỉ USD tăng 28,7% so với cùng kì năm 2019.
Trong ba tháng đầu năm, xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Trung Quốc đạt 2,58 tỉ USD, tăng mạnh 45,9% so với cùng kì năm trước; sang thị trường EU (28 nước) đạt 1,17 tỉ USD, giảm 5,4%; sang Mỹ đạt gần 1,96 tỉ USD, tăng gấp hơn 2 lần; sang Hong Kong đạt 686 triệu USD, tăng 24,5%; sang Hàn Quốc đạt 628 triệu USD, giảm 12%…
Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng 3 đạt 2,34 tỉ USD, tăng 4,7% so với tháng trước. Qua đó, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2020 đạt 7,03 tỉ USD, giảm 1,4% so với cùng kì năm trước.
Trong quý I, Mỹ vẫn là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam với trị giá đạt 3,3 tỉ USD, giảm nhẹ 0,4% so với cùng kì năm trước và chiếm 47% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; đứng thứ hai là Nhật Bản với 914 triệu USD, tăng 2%; EU (28 nước) đứng thứ ba với 806 triệu USD, giảm 6,1%…
Nhu cầu lớn từ thị trường Trung Quốc
Với ngành hàng rau quả, 6 tháng đầu năm 2023 ghi nhận kim ngạch xuất khẩu bứt phá sang thị trường Trung Quốc với 1,76 tỷ USD, tăng 121,9% so cùng kỳ năm 2022; chiếm 65,8% tổng trị giá xuất khẩu hàng rau quả.
Riêng mặt hàng trái cây, Trung Quốc nhập khẩu nhiều thanh long, sầu riêng, chuối, mít, xoài… Nhất là sầu riêng, 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam đạt hơn 915 triệu USD, tăng 997,4% so cùng kỳ năm ngoái, trong số này chủ yếu là xuất sang Trung Quốc.
Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu, Ngô Tường Vy cho biết: Năm 2023, mặc dù Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ hàng rào kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, nhưng với chất lượng ngày càng cao, giá cạnh tranh nên trái cây của Việt Nam được người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng. Với tốc độ tăng trưởng như hiện tại, dự báo xuất khẩu trái cây trong nửa cuối năm 2023 sẽ tiếp tục khả quan, đặc biệt là vào mùa lễ hội khi nhu cầu tăng mạnh.
Cùng với rau quả, mặt hàng gạo đang có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ tại thị trường Trung Quốc. Nguyên nhân một phần là do sản lượng gạo của Trung Quốc được dự báo sẽ giảm trong năm 2023, trong khi nhu cầu tiêu thụ lại tăng cao, nhất là các chủng loại gạo chính như: gạo nếp, gạo trắng, gạo thơm và một số ít là gạo giống Nhật, gạo lứt, gạo vi chất…
Với mặt hàng thủy sản, mặc dù 6 tháng đầu năm vẫn đang trong tình trạng sụt giảm kim ngạch xuất khẩu tại thị trường Trung Quốc nhưng tháng 6/2023, tốc độ giảm đã về mức một con số, giảm 7,9% so cùng kỳ năm 2022, đạt 121,97 triệu USD.
Riêng mặt hàng tôm, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tháng 6 là tháng đầu tiên kể từ đầu năm nay, xuất khẩu tôm sang Trung Quốc ghi nhận tăng so cùng kỳ năm ngoái với mức tăng 19%, đạt 59 triệu USD.
Theo số liệu thống kê của cơ quan Hải quan Trung Quốc, 6 tháng đầu năm 2023, nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc đạt 9,85 tỷ USD, tăng 21,7% so cùng kỳ năm 2022.
Ngoài ra, trong quý II/2023, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 75,23% về lượng và chiếm 73,93% về trị giá trong tổng xuất khẩu của cả nước, đạt 288,9 nghìn tấn, trị giá 382,77 triệu USD, tăng 12,8% về lượng, nhưng giảm 8% về trị giá so quý II/2022.
Thị phần cao su Việt Nam chiếm 12,57% về lượng và chiếm 11,27% về trị giá trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc, cao hơn so cùng kỳ năm 2022.